Thứ Hai, 23 tháng 7, 2018

Xử lý nước thải chăn nuôi bằng kỹ thuật hóa lý phối hợp MBR.

tiếp nối chuỗi bài viết về khoa học xử lý nước thải chăn nuôi heo, SACOTEC xin sản xuất công nghệ hóa lý + MBR, đây là khoa học chỉ để tham khảo do không với tính áp dụng cao trong nước thải chăn nuôi heo, vì mức giá đầu tư và bảo trì cao.

Xem thêm bài viết trong serie:

đặc thù quan trọng nhất của nước thải phát sinh từ các trang trại chăn nuôi, đặc thù là chăn nuôi lợn là Hàm lượng các chất hữu cơ, chất dinh dưỡng được miêu tả qua những tham số như: COD, BOD5, TN, TP, SS…những tham số này là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường chính. Đây là các thành phần dễ phân hủy, gây mùi hôi thối, nảy sinh khí độc, khiến cho sụt giảm lượng ôxy hòa tan trong nước và đặc trưng ví như ko được xử lý lúc thải ra nguồn thu nhận sẽ gây ô nhiễm môi trường, gây phì dưỡng hệ sinh thái, làm cho tác động tới cây trồng và là nguồn dinh dưỡng quan yếu để những vi khuẩn gây hại vững mạnh. Tuy nhiên trong nước thải của nông trại chăn nuôi heo mang cất hàm lượng to các vi khuẩn gây bệnh dịch, đây là nguyên tố tác động trực tiếp đến sức khỏe của con người cũng như động vật trong khu vực.

Trong các khu trang trại chăn nuôi lợn việc quét dọn phân chuồng bằng nước được tiêu dùng phổ biến tạo ra 1 khối lượng nước thải khá to. Trong nước thải hợp chất hữu cơ chiếm 70-80% gồm cellulose, protit, acid amin, chất béo, hidrat carbon và những dẫn xuất của chúng có trong phân và thức ăn thừa. Tất cả những chất hữu cơ dễ phân hủy, các chất vô sinh chiếm 20-30% gồm cát, đất, muối, urê, amonium, muối, chlorua, SO42-… những hợp chất hóa học trong phân và nước thải tiện dụng bị phân hủy, đặc biệt ô nhiễm được diễn tả cụ thể trong bảng sau:

Stt tiêu chí Tìm hiểu tổ chức

Kết quả

 

QCVN 62:2016/BTNMT (Cột B)
một. pH 6,5 5,5 – 9
hai. COD mg/l 2100 100
3. BOD5(200C) mg/l 1000 50
4. Chất rắn lơ lửng mg/l 200 100
5. Tổng N mg/l 600 30
6. Tổng P mg/l 40 6
7. Coliform * MPN/100ml 110.000 5000

Thuyết minh thứ tự xử lý nước thải chăn nuôi heo

Nước thải trong khoảng trại chăn nuôi heo đươc dẫn vào hố thu lượm. Sau chậm tiến độ nước thải tự chảy vào hầm biogas, số đông trong nước thải chăn nuôi đựng những hợp chất hữu cơ dễ phân hủy sinh vật học .Vì vậy, nước thải sau lúc qua biogas sở hữu loại thể bỏ được khoảng 60% COD, 80% cặn lửng lơ.

Nước thải trại heo sau biogas được dẫn vào bể lắng sơ cấp. Nước thải sau khi qua bể lắng, các hợp chất hữu cơ, cặn mang kích thước lớn sẽ được giữ lại tại bể lắng, mục đích của việc ngoại hình thêm bể lắng nhằm đảm bảo được sự hoạt động ổn định của các vật dụng phía sau.

Nước được dẫn tới bể điều hòa kết hợp sở hữu máy sục khí nhằm khiến cho giảm được 1 phần khí metan NH3 được tạo ra trong công đoạn kị khí , đảo lộn hoàn toàn nước thải tránh tình trạng bị lắng cặn , ổn định được lưu lượng, chất lượng nước . Do nồng độ COD, BOD trong nước thải chăn nuôi tại từng thời khắc ko ổn định, nên nước thải cần đưa vào bể điều hòa

Nước thải sau bể điều hòa được đưa vào cụm bể keo tụ tạo bông. Tại bể keo tụ tạo bông , châm hóa chất polymer và PAC nâng cao hiệu quả xử lí BOD,COD . Cụm bể hóa lí gồm 3 ngăn keo tụ +tạo bông+lắng , hóa chất sẽ được châm vào ngăn thứ nhất keo tụ , ở ngăn này nước thải sẽ được khuấy trộn đều với hóa chất , thời kì khuấy trộn xảy ra ngắn nhất và tốc độ khuấy nhanh nhất trong 3 ngăn. Sau ngừng thi côngĐây sẽ được qua ngăn hai : tạo bông . Hóa chất tiếp diễn châm , giảm tốc độ khuấy và thời gian khuấy. Lúc này sẽ hình thành các bông cặn to nên giảm tốc độ khuấy vì dễ làm đổ vỡ bông cặn . Nước được chảy qua ngăn 3: Lắng , tại đây những bông cặn sẽ lắng phần nước trong được dẫn đến bể anoxic, còn phần bông cặn sẽ được dẫn đến bể chứa bùn.

Việc ngoại hình bể anoxic đặt trước MBR là vì trong quá trình xử lí ko cần phải bổ sung thêm chất hữu cơ giúp thời kỳ xử lý nito trong nước thải thấp hơn, ít phải bổ sung nguồn C bên ngoài. Nước thải từ bể lắng hóa lý sẽ tự chảy về bể anoxic

Bể thiếu khí Anoxic

thời kỳ phản ứng nitrat

NH3 NO3 NO2 NO N2O N2(GAS)

Qúa trình phản ứng phôtphorit

PO4-3 Microorganism (PO4-3) Salt => sludge

Nước thải sẽ được dẫn đến bể MBR. Có cơ chế màng vi lọc MBR dạng tấm phẳng, kích thước lỗ màng MBR siêu nhỏ 0.01-0.2 mm. Nước thải sau thời kỳ sinh vật học thấm qua màng. Bùn và vi sinh vật gây hại như ( Coliform, Ecoli…) sẽ được giữ lại, chỉ sở hữu nước thấm qua. Hệ thống sử dụng khoa học màng MBR tiêu dùng mật độ bùn vi sinh ( MLSS) cao hơn => giảm thể tích bể sinh vật học, tăng hiệu quả xử lí, giảm sốc chuyên chở .

Sau chậm triển khai nước thải sẽ được dẫn tới hồ sinh học lợi dụng công đoạn tự làm sạch của nguồn tiếp thụ nước thải. Lượng oxy cho quá trình sinh hóa chính yếu là do không khí xâm nhập qua mặt thoáng của hồ và do thời kỳ quang quẻ hợp của thực vật nước.

Hệ động thực vật của hồ sinh học thường mang các vi sinh vật: vi sinh vật, nguyên sinh động vật, tảo, rêu, bèo… các vi sinh vật trong hồ là những vi sinh vật kỵ khí, yếm khí, hiếu khí hay tuỳ một thể như interobacterium, streptococus, clostridium, achromobacter, cytophaga, micrococus, pseu-domonas, bacillus, lactobacillus…

Thực vật trong hồ sinh vật học tiêu dùng các dinh dưỡng ( N,P), kim khí nặng (Cu, Cd, Zn..) đê tăng trưởng sinh khối. Cùng lúc trong hồ sinh học, thì những vi khuẩn luôn tiến hóa, thích ứng cao trong từng dòng nước thải. Do đó ở các điều kiện khác nhau thì những hàng ngũ thủy vật, thủy sinh sẽ được hình thành khác nhau. Bên cạnh đó chỉ có một số các thuộc tính phù hợp cho việc xử lý môi trường nước ô nhiễm.

ngày nay tại hồ sinh vật học, người ta thường dùng bèo tây, rau muống để xử lý nước thải. Bên cạnh đó điều sai trái to nhất trong việc xử lý là đề lục bình (bèo tây), rau muống mọc che kín đầy đủ mặt hồ. Trong quá trình xử lý, thì việc cung cấp oxi cho thực vật, vi khuẩn mang lợi là khôn xiết quan trọng, chính bởi vậy, việc che kín mặt hồ làm giảm đi lượng oxy cung cấp cần phải có. SACOTEC khuyến nghị mật độ che phủ mặt hồ rơi vào 25-50% tùy điều kiện thực tiễn.

Bùn sinh ra trong công đoạn xử lí sẽ được thải bỏ về bể cất bùn. Bể cất bùn mang nhiệm vụ lắng bùn, tách bùn có nước. Bùn sau lúc tách nước sẽ được bơm hút định kì để xử lí

Tìm hiểu kỹ thuật xử lý nước thải chăn nuôi.

Ưu điểm:

– giá thành vận hành rẻ

– Tiết kiệm được mức giá vun đắp cụm bể Lắng-Trung gian-Lọc-Khử trùng

– thuận tiện kiểm soát lượng DO

– nâng cao hiệu quả xử lý sinh học 10-30% do MLSS tăng 2-3 lần so có Aerotank truyền thống.

– Giảm được triệt để SS và BOD .Hiệu suất xử lý của MBR tính theo COD, BOD đạt khoảng 90-95%

Khuyết điểm:

  • ngoài ra do hàm lượng cặn quá lớn nên thường xuyên gây nghẽn bề mặt màng lọc khiến cho mất phổ biến thời gian và công sức để vệ sinh màng lọc , khoảng 3-4h phải vệ sinh màng lọc. Bởi thế màng lọc nhanh hư hỏng gây tốn kém lúc phải thay thế thường xuyên.
  • Hàm lượng BOD,COD quá cao , xử lí không triệt để. Gây sốc vận tải và làm ngộ độc cho vi sinh chỉ mất khoảng dài.
  • Người vận hành cần yếu tri thức chuyên môn để nắm rõ trật tự xử lý và vận hành cho MLSS tăng nhanh và liên tục.

Kết luận

có quy trình công nghệ trên, SACOTEC khuyến cáo không nên tiêu dùng khoa học này vì giá tiền cao, vận hành khó,chi phí nhân lực cao, tầm giá bảo trì cao, gây ngộ độc cho vi sinh và vấn đề bảo trì trang bị không được đảm bảo.


 

Thứ Ba, 14 tháng 4, 2015

Hệ thống xử lý nước thải : gần 50% bệnh viện không có

Theo báo cáo thực tế của các địa phương về xử lý nước thải y tế thì hiện có khoảng 54% các bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải y tế - Phó GS Nguyễn Huy Nga , cục trưởng cục quản lý môi trường y tế.

Sáng 18/6, phát biểu tại hội thảo liên ngành về bảo vệ môi trường trong hoạt động y tế tổ chức tại Hà Nội, phó giáo sư Nguyễn Huy Nga cho hay, trong số các bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải y tế thì bệnh viện tuyến Trung ương chiếm 73%, tuyến tỉnh là 60% và tuyến huyện là 45%. Hiện nay, 95% bệnh viện thực hiện phân loại, thu gom chất thải rắn y tế nguy hại hàng ngày.

Theo Cục Quản lý môi trường y tế, trong công tác quản lý chất thải y tế bảo vệ môi trường trong các cơ sở y tế hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn. Đầu tiên đó là kinh phí đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải chất thải y tế còn thiếu trong khi nhu cầu đầu tư để xây dựng, cải tạo các hệ thống xử lý chất thải y tế rất lớn. Nhiều hệ thống xử lý nước thải chất thải xuống cấp, quá tải cần đầu tư xây dựng mới đồng thời giá thành của một hệ thống xử lý chất thải rất cao...

 Ngoài những vấn đề trên thì còn tình trạng thiếu nhân sự có chuyên môn và trình độ trong quản lý hệ thống xử lý nước thải y tế cũng là 1 vấn đề càn phải bàn.

Theo Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (Bộ Công An), công tác bảo vệ môi trường trong lĩnh vực y tế hiện nay vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, tồn tại. Các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong các cơ sở khám chữa bệnh vẫn tái diễn phức tạp, nhất là vi phạm trong xử lý nước thải y tế, chất thải nguy hại.

Trên thực tế, Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường đã phát hiện và phối hợp với Thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường, sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh thành phố xử lý hơn 60 vụ việc vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường tại các cơ sở y tế.
Đại tá Trần Trọng Bình - Phó Cục trưởng Cục Cảnh sát Phòng chống tội phạm về môi trường (Cục C49), Bộ Công an cho biết, đó là các vụ việc bán trái phép hàng tấn chất thải y tế nguy hại cho các đối tượng chuyên tái chế tại xảy ra tại các bệnh viện lớn như Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện K vào tháng 8/2007, vụ việc vứt rác thải y tế nguy hại ra môi trường không đúng quy định, đối với thai nhi sau nạo hút được cho vào bồn cầu xả xuống bể bốt xảy ra tại Phòng khám Đa khoa phía Nam Hà Nội vào tháng 4/2013...

Gần đây nhất là vào tháng 5/2013, Cục C49 phát hiện quả tang Bệnh viện Đa khoa 16A Hà Đông (Hà Nội) có hành vi chuyển giao chất thải y tế nguy hại lẫn với chất thải sinh hoạt cho Công ty môi trường đô thị Hà Đông. Công ty trên không có chức năng vận chuyển, xử lý chất thải nguy hại.

Tháng 6/2013, Cục C49 bắt quả tang nhân viên của Bệnh viện Đa khoa Thiên Đức (Hà Đông, Hà Nội) mang chất thải y tế nguy hại ra vứt tại khu tập kết rác thải sinh hoạt của tổ 6 phường Phúc La, Hà Đông.

Do vậy, hội thảo là dịp để các cơ quan chức năng trong lĩnh vực môi trường của các bộ, ngành thảo luận, đề xuất những giải pháp, nội dung cần phối hợp liên ngành trong thời gian tới như việc đầu tư các hệ thống xử lý chất thải; ban hành các văn bản, qui định, hướng dẫn về quản lý chất thải y tế; triển khai công tác kiểm tra, giám sát, quan trắc môi trường y tế trên toàn quốc; phối hợp đồng bộ, thống nhất công tác thanh tra, kiểm tra vệ môi trường ngành y tế

Thứ Ba, 7 tháng 4, 2015

Núi rác khổng lồ làm dân Bến Tre khốn khổ lao đao

Mùi hôi thối của rác thải của bãi rác Phú Hưng khiến cho người dân Phú Thành, Bến Tre phải khốn khổ lao đao. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của họ
Núi rác thải lộ thiên không bao bọc che đậy khiến người dân nơi đây phải chịu cảnh ô nhiễm nguồn nước , không khí.


Đến bãi rác Phú Hưng, điều đầu tiên dễ nhận thấy là rác chất to như núi với hàng chục ngàn tấn nhưng không được xử lý đúng cách, không có tường rào bao quanh nên ruồi nhặng, mùi hôi thối bay khắp khu dân cư.

Bà Phạm Thị Hồng Lộc, nhà cạnh bãi rác cho biết: "Do không có tường rào, không xử lý nước nên khi mưa nước từ trên đổ xuống gây ô nhiễm nguồn nước làm cá chết, cây trồng cũng không thể sống nổi".

Theo bà Lộc, một số hộ dân ở đây chịu không xiết nên kêu bán nhà, đất nhưng chẳng ai chịu mua vì rất sợ bãi rác. Nguồn nước ô nhiễm, gia đình bà Lộc phải đầu tư mấy triệu đồng mua ống nước để lấy nước máy, chấp nhận tốn mỗi tháng hơn 200 ngàn đồng tiền nước vì đường ống xa, hao hụt lớn. Tuy nhiên, rất nhiều người dân nơi đây không có tiền nên đành chấp nhận xài nước sông đã bị ô nhiễm nặng. Một số người bệnh ngoài da, lở loét còn trẻ em thì bị bệnh hô hấp, viêm mũi...


Rác thải có ở sát các kênh khiên mỗi lần mưa là mỗi lần nước bẩn từ núi rác tràn xuống



Ông Nguyễn Hồng Châu nhà cách bãi rác gần 1km cho biết: "Lâu lâu mùi hôi thối theo gió bay xuống khu dân cư rất khó chịu, khi họp tổ có kiến nghị người ta nói sẽ giải quyết nhưng đến nay thì đâu lại vào đó".

Người dân làm ruộng cạnh bãi rác thì liên tục vác đơn đi kiện vì lúa chuẩn bị trổ là bị hư hỏng do nước rác chảy vào ruộng. Ông Phan Thành Hiệp làm 2 công ruộng cạnh bãi rác cho biết: "Mùa này còn đỡ chứ tới mùa mưa nước từ bãi rác tràn xuống là lúa chết hết. Vì vậy tôi yêu cầu phải di dời bãi rác hoặc khắc phục làm sao không có nước tràn qua ruộng lúa của dân".



Theo một số người dân địa phương, trước đây bãi rác ở xa khu dân cư, lượng rác ít nên đỡ ô nhiễm. Tuy nhiên, thời gian gần đây lượng rác ngày càng nhiều nên họ chất cao thành núi và mua một số thửa đất ở cạnh bên lấn gần vào khu dân cư của người nên trình trạng ô nhiễm môi trường thêm nặng nề hơn.


Bãi rác khổng lồ như núi gây ô nhiễm môi trường



Ông Phạm Văn Tống, Chủ tịch UBND xã Phú Hưng, cho biết: “Bãi rác của Phú Hưng đã quá tải, gây ô nhiễm môi trường nên ảnh hưởng tới cuộc sống người dân. Người dân địa phương đã nhiều lần kiến nghị cơ quan chức năng xử lý tình trạng ô nhiễm tại bãi rác này". Theo ông Tống, đang có hướng xây dựng nhà máy xử lý rác, trong khi chờ đợi, chính quyền địa hương đề xuất Công ty công trình đô thị có hướng mở rộng diện tích để đào hồ xử lý rác, phun chế phẩm hóa chất để giảm ô nhiễm môi trường".


Những thửa ruộng kế bên bãi rác cũng liên tục bị mất mùa



Trao đổi với phóng viên Dân trí, ông Nguyễn Tấn Vũ, Phó Giám đốc Công ty TNHH MTV công trình đô thị TP Bến Tre cho biết: "Bãi rác Phú Hưng hình thành từ năm 1990 với diện tích 2,6 ha, hoạt động đến năm 2009 thì đầy nên UBND TP Bến Tre cho mở rộng thêm 2,1 ha nữa. Đến năm 2013 mở rộng thêm 5.200m2 và lại tiếp tục đầy vào cuối năm 2014. Hiện tại mỗi ngày bãi rác tiếp nhận từ 100 đến 110 tấn rác từ TP Bến Tre và một số xã lân cận của huyện Châu Thành". Theo ông Vũ, mỗi ngày nhân viên đều thực hiện các giải pháp xử lý như phun, xịt nhằm giảm bớt tình trạng ô nhiễm môi trường. Hiện tại một phần diện tích đã được phủ bạt. Tuy nhiên, một lượng lớn rác tồn tại từ rất lâu, chôn lấp không đúng cách nên gây ô nhiễm môi trường. Giải pháp lâu dài để khắc phục tỉnh trạng ô nhiễm môi trường là xây dựng lò đốt rác, nhà máy xử lý rác công nghệ cao.



Hiện tại, tỉnh Bến Tre đã lập "Dự án đầu tư xây dựng công trình đóng cửa bãi rác Phú Hưng" để xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường tại đây. Tuy nhiên, dự án này vẫn chưa được triển khai nên người dân vẫn còn chịu khổ với bãi rác lộ thiên khổng lồ này không biết tới chừng nào. Theo người dân nơi đây chỉ có đóng cửa hay di dời mới khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng do bãi rác gây ra.


Thứ Hai, 6 tháng 4, 2015

Nhiễm ký sinh trùng sau khi ăn ốc ma một bé trai đã bị viêm mãng não

Vào ngày 8/7 sau hơn 1 tuần nhập viện vì đau đầu chóng mặt sau khi nhiễm ký sinh trùng có trong ốc ma, một bé trai vẫn chưa thoát khỏi cơn nguy kịch.

Theo lời tường thuật của các bác sĩ bệnh viện Nhiệt đới hồ chí minh , bé Lý Hoàng Đăng ở quận 8 được người thân đưa đến trong tình trạng đau đầu, nôn mửa, sốt cao . Cháu cho biết tầm tháng trước cùng nhóm bạn trong xóm bắt ốc ma bò quanh vườn nướng ăn.

Nghi ngờ bệnh nhân nhiễm ký sinh trùng từ ốc ma, các bác sĩ đã xét nghiệm máu và phát hiện Angiostrongylus cantonensis - hay còn gọi là giun đũa ký sinh trong phổi chuột và các loại ốc bò trên cạn như ốc sên, ốc ma.


Loại ốc ma này được người dân nướng ăn và sau đó nhập viện vì viêm màng não.


"Căn cứ vào các triệu chứng, chúng tôi xác định bệnh nhi bị viêm màng não và nguyên nhân là loại ký sinh trùng này.Gần 1 tuần chăm sóc cháu bé đã qua cơn hiểm nghèo, nhưng vẫn còn sốt và đau đầu. Bé phải nằm viện để tiếp tục được theo dõi", một bác sĩ cho biết.

Theo lời của bệnh nhân, bé ăn ốc cách đây khoảng một tháng. "Hôm đó con vừa ăn là ói liền. Mấy ngày sau con thấy nhức đầu rồi càng ngày càng nhức nhiều hơn", bé nói. Nhưng hiện các bạn của bé cùng ăn ốc ma vẫn không có triệu chứng phát bệnh.

Tất nhiên trường hợp bị viêm màng não cũng không hiếm tại bệnh viện. Cũng tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới, các bác sĩ khoa Nhiễm Việt - Anh từng điều trị nhiều ca nằm liệt giường chỉ vì ăn loại ốc này.Vào năm 2009 cũng có 2 thanh niên ở quận Gò Vấp trong khi say đã bắt 2 con ốc mà nướng nhậu. Hai tuần sau cả hai bắt đầu lên cơn đau đầu, co giật và hôn mê sâu. Chẩn đoán cho thấy cả hai bị biến chứng viêm màng não do ký sinh trùng Angiostrongylus cantonensis trong loại ốc mà họ ăn gây nên và dù được điều trị tích cực bằng thuốc diệt ký sinh trùng, nhưng một trong hai đã không qua khỏi. Người còn lại di chứng não phải sống thực vật.

Trường hợp khác, một thanh niên ở Bình Dương nghe bạn bè kháo nhau ăn ốc ma chữa bệnh đau lưng nên đã tìm bắt và nướng nhậu. Kết quả gần 2 tháng tìm ốc ăn để chữa bênh thì thanh niên này đã phải nhập viện trong tình trạng tương tự. Bệnh nhân may mắn hồi phục sau hơn một tháng nằm viện.

Nghiên cứu của các bác sĩ chuyên khoa cho thấy, do ít tồn tại dưới nước nên Angiostrongylus cantonensis chủ yếu ký sinh trên các loại ốc sống ở cạn hoặc vừa ở nước vừa bò lên cạn. Chính vì thế ăn chín hoặc chế biến kỹ các loài mang mầm bệnh trước khi ăn luôn cần thiết để phòng bệnh.

Riêng loại ốc ma từng là thủ phạm gây viêm màng não, các bác sĩ cho rằng chưa có bằng chứng nào cho thấy có thể trị được bệnh đau khớp như lời một số bệnh nhân từng ăn. "Người dân không nên nghe theo lời đồn đại rồi dùng làm thực phẩm hoặc khi bắt được ốc thì chế biến một cách sơ sài rồi ăn vì khả năng mắc bệnh là rất cao", một bác sĩ nói.

Ốc ma có hình dạng tương tự như ốc bươu nhưng có vỏ dày như ốc hương, thân màu nâu xám, sống trong vườn cây nhưng do di chuyển trên mặt đất nên toàn thân tiếp xúc với rất nhiều loại ký sinh trùng gây nguy hiểm cho cơ thể con người.

Thứ Bảy, 4 tháng 4, 2015

RÁC THẢI ĐIỆN TỬ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ NHỨC NHỐI VỀ VIỆC XỬ LÝ

Người tiêu dùng có trách nhiệm chuyển giao các sản phẩm rác thải điện tử tại các điểm thu hồi và doanh nghiệp làm ra sản phẩm chính là người có trách nhiệm xử lí khối rác thải điện tử. 

Tại “diễn đàn về việc tái chế trong hoạt động chuỗi cung ứng ở Việt Nam năm 2015” Vietnam Supply Chain đã cập nhật quyết định 50/2013/QD-TTg của thủ tướng chính phủ về việc thu hồi và xử lí sản phẩm thải bỏ và định hướng phát triển bền vững cho các doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu thông qua những chia sẻ thực tế, những câu chuyện thành công của các chuyên gia về việc tái chế trên thế giới. Chương trình nhận được những sự chia sẻ từ các chuyên gia đến từ: Baker & Mc.Kenzie Vietnam, Reverse Logistic GmbH, RAPI…


Theo Điều 5.1 của QĐ 50/2013/QĐ-TTg: Người tiêu dùng có trách nhiệm chuyển giao các sản phẩm thải bỏ tại các điểm thu hồi. Cụ thể trong bảng phụ lục danh mục sản phẩm thải bỏ, thời điểm thu hồi và xử lí được ban hành kèm theo Quyết định, từ ngày 1/1/2015 sẽ tiến hành thu hồi những sản phẩm như: ắc-quy, pin, bóng đèn compact, bóng đèn huỳnh quang, máy vi tính (để bàn, xách tay), màn hình vi tính, cục CPU, máy in, máy fax, máy scanner, máy chụp ảnh, máy quay phim, ĐTDĐ, máy tính bảng, đầu DVD, VCD, CD, các loại đầu đĩa khác đã hết thời hạn sử dụng.

Cũng theo quy định này, trách nhiệm xử lí khối rác thải điện tử là của các doanh nghiệp làm ra nó.Theo đó, các DN sản xuất và nhập khẩu những thiết bị này sẽ có trách nhiệm thiết lập các điểm thu hồi, thỏa thuận với những tiêu dùng về cách thức chuyển giao, tiếp nhận sản phẩm thải bỏ, sau đó vận chuyển những sản phẩm này đến các cơ sở xử lí để tái sử dụng, tái chế, tiêu hủy… 

Như vậy, nhà sản xuất và nhập khẩu sẽ đi thu gom trong khi hệ thống cửa hàng là nằm trong tay nhóm phân phối, đại lí, bán lẻ. Con đường thu hồi cũng sẽ dài như con đường của sản phẩm từ xưởng sản xuất đến tay người tiêu dùng.

Hiện nay chi phí để phân phối sản phẩm chiếm khoảng trên 30% giá thành sản phẩm, vậy chi phí cho thu hồi sẽ là bao nhiêu? Không vội bàn đến chi phí thu gom, việc xây dựng lại quy trình vòng đời sản phẩm tại các DN sản xuất và nhập khẩu cũng sẽ thay đổi. Cách nào để các doanh nghiệp có thể xây dựng hệ thống xử lí rác điện tử triệt để và không làm nguy hại đến môi trường. 

Bởi vì bản chất của rác điện tử rất nguy hiểm, một khi có một lượng lớn sản phẩm bị đưa ra môi trường mà chưa được xử lí, chúng có thể gây rò rỉ hóa chất và kim loại nặng ra không khí, đất, nước và thực phẩm, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người, có thể gây ra các bệnh về ung thư, tim mạch... được ví như “quả bom hẹn giờ” đối với sự sống của trái đất.

Hiện nay, dưới áp lực gia nhập WTO, bên cạnh việc phải tuân thủ các quy định, luật pháp của chính phủ, thiết nghĩ các doanh nghiệp cũng nên có những định hướng chiến lược phát triển lâu dài bền vững vì mục tiêu cộng đồng. 

Tái chế trong quản lý chuỗi cung ứng trở thành một trong những nhiệm vụ hàng đầu không chỉ cho các doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu thiết bị điện tử, mà còn là bài toán hóc búa cho lãnh đạo các doanh nghiệp sản xuất nói chung vì mục tiêu phát triển bền vững cho công ty và cộng đồng trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Theo nguồn: moitruong.com.vn

Thứ Hai, 30 tháng 3, 2015

CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC THẢI DỆT NHUỘM CHUẨN NHẤT

I. Tính chất nước thải dệt nhuộm.

Nguồn nước thải phát sinh trong công nghiệp dệt nhuộm là từ các công đoạn: hồ sợi, giủ hồ, nấu, tẩy nhuộm và hoàn tất, trong đó lượng nước thải chủ yếu do quá trình giặt sau mỗi công đoạn, nhu cầu sử dụng nước trong nhà máy dệt nhuộm là rất lớn và thay đổi theo các mặt hàng khác nhau.


Các chất ô nhiễm chính trong nước thải dệt nhuộm bao gồm:
  • Các tạp chất tách ra từ vải sợi như: dầu mỡ, các hợp chất chứa Nito, Protein, các bụi bẩn bám dính vào sợi ( trung bình chiếm 6% khối lượng xơ sợi )
  • Các hóa chất sử dụng trong quy trình công nghệ như: hồ tinh bột, H2SO4, CH3COOH, NaOH, NaOCl, H2O2, Na2CO3, Na2SO3… các loại thuốc nhuộm, các chất trơ, chất ngâm, chất cầm màu, chất tẩy giặt. Lượng hóa chất sử dụng đối với từng loại vải, từng loại màu khác nhau và chủ yếu đi vào nước thải của từng công đoạn tương ứng.
Đặc biệt quan trọng nhất của nước thải từ các cơ sở dệt nhuộm là sự dao động rất lớn cả về lưu lượng và tải lượng các chất ô nhiễm, nó thay đổi theo mùa, theo mặt bằng sản xuất và chất lượng sản phẩm.
Nhìn chung nước thải từ các cơ sở dệt nhuộm  có độ kiềm khá cao, có độ màu và hàm lượng chất hữu cơ, tổng chất rắn cao
Vì vậy quy trình xử lý nước thải dệt nhuộm tương đối khăn cần phải lựa chọn công nghệ phù hợp để xử lý tốt.
II. Quy trình công nghệ xử lý nước thải dệt nhuộm


Hình 1: quy trình xử lý nước thải dệt nhuộm

Thuyết minh quy trình công nghệ 

Nước thải từ xưởng sản xuất được dẫn về ngăn tiếp nhận sau khi qua song chắn rác để loại bỏ các chất thải rắn có kích thước lớn hoặc dạng sợi như giấy, rác...
Sau đó nước tiếp tục chảy sang bể điều hòa để để điều hòa và ổn định lượng nước đầu vào đảm bảo cho công trình xử lý làm việc tốt và đạt được giá trị kinh tế, trong bể điều hòa bố trí 2 máy thổi khí nhằm xáo trộn điều nước thải và ngăn ngừa hiện tượng lắng cặn trong bể.
Từ bể điều hòa nước thải được bơm lên tháp giải nhiệt với mục đích giảm nhiệt độ của nước thải từ 600C xuống dưới 400C ( do nước thải dệt nhuộm có nhiệt độ cao khoảng 60 - 70oC) sau đó nước thải trở về bể điều hòa. Tại đây có bố trí hai máy thổi khí luân phiên hoạt động nhằm mục đích xáo trộn đều nước thải và hiệu chỉnh pH thích hợp cho quá trình xử lý sinh học phía sau.
Từ bể trung gian, nước thải tự chảy sang cụm bể xử lý sinh học với 5  bể kỵ khí lơ lửng và 3 bể hiếu khí dính bám.  Nồng độ  bùn hoạt tính hiếu khí trong bể được duy trì trong khoảng 2000mg MLVSS/l vsv . Nước thải sau  quá trình hoạt tính kỵ khí tiếp tục tự chảy qua 3 bể chứa vật liệu dính bám, trong các bể này có lắp đặt giá thể tạo điều kiện thuận lợi cho các vi sinh vật phát triển để tiếp tục  phân hủy các chất hữu cơ còn lại trong nước thải.
Sau khi qua quá trình xử lý bằng cụm bể sinh học, nước thải tự chảy sang bể lắng trung gian với mục đích lắng các bông bùn sinh học. Bùn từ bể lắng được đưa sang bể nén bùn. Phần lớn bùn hoạt tính từ bể nén bùn được bơm tuần hoàn về cụm bể xử lý sinh học. Phần bùn dư được bơm sang bể nén bùn để tách nước. Nước phát sinh từ bể nén bùn tự chảy qua bể điều hòa để tiếp tục xử lý.
Từ bể lắng đợt 2, nước thải được bơm lên bể keo tụ để hòa trộn hóa chất keo tụ với nước thải, sau đó tại bể tạo bông polymer được thêm vào để tăng kích thước bông cặn. Hóa chất khử trùng cũng được cho vào bể tạo bông nhằm mục đích loại bỏ vi sinh vật gây bệnh trong nước thải. Chất keo tụ được sử dụng là PAC ( Poly aluminium choloride), chất trợ keo tụ polymer và chất khử trùng sử dụng là NaOCl.
Sau quá trình tạo bông, hỗn hợp nước và bông cặn tự chảy về bể lắng. Tại bể lắng, bông cặn được tách khỏi nước thải tác dụng của trọng lực. Nước trong được máng thu chảy qua mương tiếp xúc và chảy ra nguồn thải.


CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC THẢI CƠ SỞ SẢN XUẤT BÚN

Bún là một món ăn phổ biến và truyền thống của người Việt Nam ta, nhưng ít ai biết được quy trình làm bún như thế nào ? Cũng ít ai biết được trong quá trình sản xuất bún phát sinh ra rất nhiều nước thải gây ô nhiễm môi trường , và để xử lý nước thải ngành sản xuất bún cần phải thực hiện quy trình như thế nào ? Chúng ta cùng tìm hiểu nhé.


Hình 1: Quy trình ép bún thành sợi

Quy trình sản xuất bún bao gồm
Ngâm Gạo -> Nghiền Ướt Gạo -> Tách Bớt Nước -> Hồ Hóa -> Nhào Bột -> Ép Tạo Sợi -> Hấp -> Ủ -> Sấy -> Làm Nguội -> Bao Gói
Trong quá trình làm bún phát sinh ra rất nhiều nước thải với thành phần ô nhiễm chính có nguồn gốc từ tinh bột.
Dưới đây là một kết quả phân tích nước thải sản xuất bún tại một cơ sở tư nhân:
Qua kết quả phân tích cho thấy nước thải sản xuất bún có nồng độ ô nhiễm rất cao, đặc biệt là COD vượt quá tiêu chuẩn cho phép 25 lần, nồng độ  NH4+ vượt tiêu chuẩn cho phép hơn 3 lần, hàm lượng SS vượt tiêu chuẩn cho phép khoảng 3 lần, chỉ tiêu PH thấp hơn tiêu chuẩn cho phép. Ngoài ra trong nước thải còn có BOD, nito, photpho và vi sinh vật gây bệnh..
Tuy nhiên hầu hết các cơ sở sản xuất bún chưa thực hiện tốt việc xử lý nước thải đầu ra, nước thải đều được thải trực tiếp ra môi trường và gây ô nhiễm nặng, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và sinh vật xung quanh. 
Vì thế, để giúp cho các doanh nghiệp xử lý nước thải góp phần bảo vệ môi trường sống, công ty môi trường Minh Việt chuyên tư vấn, thiết kế, thi công công trình xử lý nước thải đảm bảo chất lượng, uy tín hàng đầu và công nghệ tối ưu nhất. Dưới đây là công trình hệ thống xử lý nước thải cơ sở sản xuất bún mà công ty chúng tôi đã thực hiện.

SƠ ĐỒ QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC THẢI:


Hình 2: quy trình xử lý nước thai cơ sở sản xuất bún 

THUYẾT MINH QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ XỬ LÝ NƯỚC THẢI CƠ SỞ SẢN XUẤT BÚN

Nước thải cơ sở sản xuất bún theo hệ thống thu gom sẽ đi qua song chắn rác để loại bỏ các chất rắn có kích thước lớn như bao bì, vỏ nhựa, lá cây… Quá trình này nhằm bảo vệ cho các máy móc thiết bị phía sau hoạt động ổn định.
Sau khi qua song chắn rác, nước thải sẽ chảy vào bể lắng bậc một. Các chất rắn lơ lửng có kích thước bé sẽ lắng xuống đáy bể và được thu hồi làm thức ăn gia súc. Công đoạn này có tác dụng giảm tải cho các quá trình sinh học phía sau. Phần nước trong tách ra từ bể lắng một sẽ chảy vào ngăn chứa trung gian và từ đây sẽ được bơm vào bể phân hủy sinh học kỵ khí.

Tại bể sinh học ky khí, các vi sinh vật kỵ khí sẽ phân hủy các chất hữu cơ có trong nước thải thành các chất vô cơ ở dạng đơn giản và khí Biogas (CO2, CH4, H2S, NH3…), theo phản ứng sau:

Chất hữu cơ + Vi sinh vật kỵ khí → CO2 + CH4 + H2S + Sinh khối mới + …

Ngoài ra, trong bể còn lắp đặt hệ thống giá thể dính bám nhằm tăng cường nồng độ vi sinh vật có trong bể sinh học kỵ khí đẩy nhanh quá trình chuyển hóa chất hữu cơ.

Sau bể sinh học kỵ khí, nước thải được dẫn qua bể aerotank (sinh học hiếu khí). Trong bể sinh học hiếu khí, các vi sinh vật hiếu khí sử dụng oxy hòa tan phân hủy và chuyển hóa chất hữu cơ trong nước thải thành sinh khối, CO2 và nước. Các vi sinh vật tập hợp thành tập đoàn, dưới dạng các bông bùn hoạt tính. Nguồn oxy hòa tan được cung cấp từ máy thổi khí thông qua hệ thống ống phân phối khí. Khi nguồn oxy hòa tan được đảm bảo, quá trình oxy hóa sinh học các chất ô nhiễm và quá trình nitrat hoá diễn ra triệt để. Kết quả nước được làm sạch và sinh khối vi sinh vật tăng lên.

Sau khi xử lý bằng sinh học hiếu khí, nước thải sẽ chảy qua ngăn lắng nhằm tách sinh khối vi sinh vật (bùn sinh học) có trong dòng nước thải. Phần nước trong sẽ đi qua bể khử trùng. Phần bùn lắng xuống đáy bể sẽ tuần hoàn lại bể sinh học để duy trì nồng độ bùn, phần bùn dư định kỳ sẽ được bơm vào bể chứa bùn.

Tại bể khử trùng, hóa chất khử trùng sẽ được bơm định lượng đưa vào bể nhằm tiêu diệt vi sinh có hại có trong nước thải, đồng thời oxy hóa các chất hữu cơ còn sót lại trong nước.

Cuối cùng nước thải được bơm vào thiết bị lọc áp lực nhằm loại bỏ hàm lượng cặn còn sót lại mà quá trình lắng chưa thực hiện được.

Nước sau hệ thống xử lý nước thải cơ sở sản xuất bún đảm bảo đạt mức B – QCVN 40:2011/BTNMT sẽ được xả vào môi trường tiếp nhận.

Bùn dư từ bể sinh học dẫn về bể phân hủy bùn. Quá trình ổn định bùn kỵ khí diễn ra trong thời gian dài sẽ làm cho bùn ổn định, mất mùi hôi và dễ lắng. Từ bể phân hủy bùn, bùn được tách nước và định kỳ hút đem xử lý. Nước sau khi tách bùn sẽ tuần hoàn trở lại bể trung gian tiếp tục xử lý.