Thứ Bảy, 7 tháng 2, 2015

PHÁT HIỆN KHU RỪNG TIỀN SỬ 10.000 NĂM TUỔI DƯỚI ĐÁY BIỂN

 Một thợ lặn đã vô cùng kinh ngạc khi phát hiện ra khu rừng tiền sử 10.000 năm tuổi lạ thường chìm dưới đáy Biển Bắc. Các chuyên gia tin rằng nó có thể trải dài đến tận châu Âu.
Bà Dawn Watson, 45 tuổi, một thợ lặn người Anh đã phát hiện ra “khu rừng bị thất lạc” đặc biệt này khi lặn xuống độ sâu 300 mét ở ngoài khơi bờ biển Cley next the Sea, Norfolk.
Bà tìm thấy những cây sồi nguyên vẹn với các cành nhánh dài tới 8 mét ở sâu dưới đáy biển. Các chuyên gia tin rằng chúng chìm ở ngoài khơi bờbiển Norfolk kể từ Kỷ Băng hà.
Khu rừng được cho là đã bị lộ ra sau thời tiết mưa bão vào mùa đông năm ngoái.
Khu rừng 10.000 năm tuổi được nữ thợ lặn Dawn Watson phát hiện ra khi lặn ở độ sâu 300 mét tại ngoài khơi bờ biển Norfolk. (Ảnh: Dailymail)
Khu rừng 10.000 năm tuổi được nữ thợ lặn Dawn Watson phát hiện ra khi lặn ở độ sâu 300 mét tại ngoài khơi bờ biển Norfolk. (Ảnh: Dailymail)
Bà Watson đã lặn ở Biển Bắc 16 năm nay cho biết bà “hoàn toàn choáng váng” khi phát hiện ra những cây sồi cổ đại. (Ảnh: Dailymail)
Bà Watson đã lặn ở Biển Bắc 16 năm nay cho biết bà “hoàn toàn choáng váng” khi phát hiện ra những cây sồi cổ đại. (Ảnh: Dailymail)
Bà Watson, người điều hành dự án khảo sát Hiệp hội Bảo tồn Biển, Nghiên cứu biển tại Đông Anglia cùng với đối tác là Rob Spray cho biết bà “hoàn toàn choáng váng” với phát hiện này.
Bà nói: “Tôi không thể tin những gì mình nhìn thấy lần đầu”. “Ven bờ biển khá động vì thế tôi quyết định lặn xa hơn một chút và sau khi bơi qua 300 mét cát, tôi phát hiện ra một dãy núi đen dài”.
“Nhìn kỹ hơn, tôi nhận ra đó là gỗ và khi bơi xa hơn, tôi bắt đầu tìm thấy toàn bộ thân cây với cành nhánh ở trên ngọn. Trông như chúng từng bị đốn hạ”.
“Thật tuyệt khi tìm thấy và nghĩ rằng những cái cây nằm ở đây hoàn toàn chưa được khám phá ra trong hàng ngàn năm. Bạn chắc chắn không mong nhanh thoát khỏi đây và tìm thấy 1 khu rừng”.
Bà Watson đã lặn ở Biển Bắc trong 16 năm cho biết những cây này được cho là một phần của khu rừng khổng lồ có thể rộng hàng ngàn mẫu.
Nhưng người ta tin rằng khu rừng đã bị ngập sâu dưới biển khi băng tan và nước biển dâng lên 120 mét.
Những cây đổi nằm trên mặt đất, hình thành 1 rạn san hô tự nhiên kết hợp với các loại cá, động vật và thực vật hoang dã nhiều màu sắc.
Khu rừng tiền sử được phát hiện ở ngoài khơi Cley next the Sea, Norfolk. (Ảnh: Dailymail)
Khu rừng tiền sử được phát hiện ở ngoài khơi Cley next the Sea, Norfolk. (Ảnh: Dailymail)
Nó có thể bị nhấn chìm do băng tan và mực nước biển tăng 120 mét. (Ảnh: Dailymail)
Nó có thể bị nhấn chìm do băng tan và mực nước biển tăng 120 mét. (Ảnh: Dailymail)
Khu rừng kỳ lạ này bị lộ ra sau thời tiết mưa bão hồi mùa đông năm ngoái. (Ảnh: Dailymail)
Khu rừng kỳ lạ này bị lộ ra sau thời tiết mưa bão hồi mùa đông năm ngoái. (Ảnh: Dailymail)
(Ảnh: Dailymail)
(Ảnh: Dailymail)
(Ảnh: Dailymail)
(Ảnh: Dailymail)
“Sau một thời gian, khu rừng sẽ mang phong cách Tolkein toàn diện, trải dài hàng trăm dặm”, ông Spray, đối tác của bà Watson nói.
“Nó sẽ ngày càng phát triển và vào những ngày đó, không ai có thể phá hủy nó, bởi thế mà nó trở thành 1 khu rừng khổng lồ”.
“Trông nó giống như 1 cảnh trong Hobbit hoặc trong “Chúa tể của những chiếc nhẫn”, điều mà chúng ta không có được ở đất nước này. Các nhà địa chất học đã rất vui mừng về điều này. Đây thực sự là một khám phá kỳ diệu”.
2 nhà nghiên cứu hiện hy vọng rằng phương pháp carbon phóng xạ (radio carbon dating) có thể giúp họ xác định được độ tuổi chính xác của khu rừng.
Theo nguồn: thiennhien.net

Thứ Hai, 2 tháng 2, 2015

XỬ LÝ NƯỚC NHIỄM NITRAT, NITRIT, AMONIAC

Tùy theo mức độ có mặt của các hợp chất nitơ mà ta có thể biết được mức độ ô nhiễm nguồn nước. Khi nước mới bị nhiễm bẩn bởi phân bón hoặc nước thải, trong nguồn nước có NH3, NO2- và NO3-. Sau một thời gian NH3 và NO2- bị oxy hóa thành NO3-. Như vậy:
Nếu nước chứa NH3 và nitơ hữu cơ thì coi như nước mới bị nhiễm bẩn và nguy hiểm.
Nếu nước chủ yếu có NO2- thì nước đã bị ô nhiễm thời gian dài hơn, ít nguy hiểm hơn.
Nếu nước chủ yếu là NO3- thì quá trình oxy hóa đã kết thúc.
Ở điều kiện yếm khí, NO3- sẽ bị khử thành N2 bay lên. Amoniac là chất gây nhiễm độc trầm trọng cho nước, gây độc cho loài cá.
Việc sử dụng rộng rãi các nguồn phân bón hóa học cũng làm cho hàm lượng amoniac trong nước tự nhiên tăng lên. Trong nước ngầm và nước đầm lầy hay gặp Nitrat(NO3-) và amoniac với hàm lượng cao.
nuoc_nhiem_nitrat_nitrit_amoniac
nuoc_nhiem_nitrat_nitrit_amoniac
Các giải pháp
Các giải pháp xử lý tổng quát
1. Phương pháp khử ion Amoni
1.1. Phương pháp Clo hóa nước đến điểm đột biến
Khi cho CLo vào nước, trong nước tạo ra axit hypoclorit
 Cl2 + H2O ⇔ HCl + HOCl
Axit hypoclorit kết hợp với NH4+ tạo thành Cloramin. Khi nhiệt độ nước ≥200C, pH ≥7 phản ứng diễn ra như sau:
 OH- + NH4+→ NH4OH ⇔ NH3 + H2O
 NH3 + HOCl → NH2Cl + H2O monocloramin
 NH2Cl + HOCl → NHCl2 + H2O dicloramin
 NHCl2 + HOCl → NCl3 + H2O tricloramin
Quá trình kết thúc sau 3 phút khuậy trộn nhẹ. Tại điểm oxy hóa hết Cloramin và trong nước xuất hiện Clo tự do gọi là điểm đột biến. Sau khi khử hết NH4+ trong nước cò lại lượng clo dư lớn, phải khử clo dư trước khi cấp cho người tiêu thụ.
- Khử Clo dư trong nước sau khi lọc bằng Natrisunfit (Na2SO3)
Na2SO3 + Cl2 + H2O → 2HCl + Na2SO4
- Khử Clo dư trong nước sau khi lọc bằng Trionatrisunfit (Na2S2O3)
4Cl2 + Na2S2O3 + 5H2O → 2NaCl+ 6HCl + 2H2SO4
Quá trình diễn ra hoàn chỉnh sau 15 phút khuấy trộn đều hóa chất và nước
1.2. Phương pháp làm thoáng
Muốn khử NH4+ ra khỏi nước bằng phương pháp làm thoáng, phải đưa pH của nước nguồn lên 10.5 – 11.0 để biến 99% NH4+ thành khí NH3 hòa tan trong nước.
- Nâng pH của nước thô: Để nâng pH của nước thô lên 10.5 – 11.0 thường dùng vôi hoặc xút. Sau bể lọc pha axit vào nước để đưa pH từ 10.5 – 11.0 xuống còn 7.5
- Tháp làm thoáng khử khí amoniac NH3 thường được thiết kế để khử khí amoniac có hàm lượng đầu vào 20 – 40 mg/l, đầu ra khỏi giàn hàm lượng còn lại 1 – 2mg/l, như vậy hiệu quả khử khí của tháp phải đạt 90 – 95%. Hiệu quả khử khí NH3 của tháp làm thoáng khi pH ≥11 phụ thuộc nhiều nhiệt độ của nước. Khi nhiệt độ nước tăng, tốc độ và số lượng ion NH4 chuyển hóa thành NH3 tăng nhanh.
1.3. Phương pháp trao đổi ion
Để khử NH4+ ra khỏi nước có thể áp dụng phương pháp lọc qua bể lọc cationit. Qua bể lọc cationit, lớp lọc sẽ giữ lại ion NH4+ hòa tan trong nước trên bề mặt hạt và cho vào nước ion Na+. Để khử NH4+ phải giữ pH của nước nguồn lớn hơn 4 và nhỏ hơn 8. Vì khi pH ≤ 4, hạt lọc cationit sẽ giữ lại cả ion H+ làm giảm hiệu quả khử NH4+ . Khi pH > 8 một phần ion NH4+ chuyển thành NH3 dạng khí hòa tan không có tác dụng với hạt cationit.
1.4. Phương pháp sinh học
Lọc nước đã được khử hết sắt và cặn bẩn qua bể lọc chậm hoặc bể lọc nhanh, thổi khí liên tục từ dưới lên. Do quá trình hoạt động vi khuẩn Nitrosomonas oxi hóa NH4+ thành NO2- và vi khuẩn Nitrobacter oxy hóa NO2-thành NO3- . Quá trình diễn ra theo phương trình:
NH4+ + 2O2 → NO3- + 2H+ + H2O
1.02NH4++ 1.89O2 + 2.02HCO3- → 0.21C5H7O2N + 1.0NO3- + 1.92 H2CO3 + 1.06H2O
2. Khử Nitrate NO3-
Để khử nitrat dùng lọc thẩm thấu ngược RO, điện phân, trao đổi ion trong các bể lọc ionit.
Điều kiện áp dụng phương pháp trao đổi ion
- Nước có hàm lượng cặn < 1mg/l.
Tổng hàm lượng ion NO3- và SO42- và Cl- có sẵn trong nước phải nhỏ hơn 250 mg/l là hàm lượng ion Cl- lớn nhất cho phép có trong nước ăn uống. Vì khi lọc qua bể lọc anionit các ion SO42-, NO3- được giữ lại, thay bằng ion Cl- khi hoàn nguyên bể lọc anionit bằng dung dịch muối ăn.